Bùi Văn Tạo
TÍNH DÂN TỘC VÀ HIỆN ĐẠI TRONG
SÁNG TÁC VÀ BIỂU DIỄN CA KHÚC Ở QUẢNG NGÃI
Âm nhạc hiện đại được hiểu theo góc độ có nguồn gốc từ phương Tây, hình thành và phát triển qua nhiều thế kỷ. Hệ thống âm hình, tiết tấu, nhịp phách, điệu thức,…là cơ sở để các nhà soạn nhạc làm nên những tác phẩm nhạc không lời, có lời,…tồn tại mãi với thời gian. Âm nhạc hiện đại du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế XX, cùng với âm nhạc cổ truyền tạo nên diện mạo riêng cho âm nhạc nước nhà. Nhiều tác phẩm tân nhạc hay đã ra đời trong giai đoạn nầy của các nhạc sĩ: Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Tô Vũ, Đặng Thế Phong, Nguyễn Đình Phúc, Phạm Duy, Văn Chung,...Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, âm nhạc đã góp phần không nhỏ trong giáo dục tình yêu quê hương, cổ vũ tinh thần độc lập, gương hy sinh cao cả,…để rồi đất nước đến ngày toàn thắng. Trong xu thế đổi mới, hội nhập và phát triển, làn sóng âm nhạc thế giới càng lan nhanh vào nước ta. Cho nên, phát huy tính dân tộc và hiện đại trong sáng tác, biểu diễn ca khúc là vấn đề luôn cần được sự quan tâm của các cấp quản lý, lực lượng sáng tác, biểu diễn,…và người thưởng thức cả nước nói chung và Quảng Ngãi nói riêng.
Trước hết nói về âm nhạc của người trưởng thành. Các thế hệ nầy, đa số tiếp cận âm nhạc thông qua hệ thống các bài hát trên đài phát thanh truyền hình, băng đĩa nhạc hay buổi biểu diễn, nghe dần thành thâm nhập. Họ thích nghi với dòng nhạc ca ngợi tình yêu quê hương, lứa đôi, giai điệu nhẹ nhàng, ca từ gần gũi với cuộc sống. Một số tác phẩm có tính học thuật cao, ca từ chứa đựng triết lý sâu xa được giới am hiểu âm nhạc tiếp nhận ghi nhớ như điều kinh điển. Đáp ứng nhu cầu trên, các nhạc sĩ Quảng Ngãi đã sáng tác nhiều ca khúc có giá trị lưu hành rộng rãi trong công chúng, có thể kể một số đại diện như: Tiếng đàn xe nước của Văn Đông; Hỡi dòng sông Trà của Thế Bảo; Quảng Ngãi đất mẹ ngoan cường của Trương Quang Lục; Nghe câu hò Ba lý của Trần Xuân Tiến; Quảng Ngãi nhớ thương của Nguyễn Tuấn; Hợp xướng Chân sóng của Văn Phượng; Con đò thời gian của Phạm Tuy; Biển đảo nghìn trùng Tổ quốc ta của Điền Sơn; Quảng Ngãi trong tôi của Đình Thậm; Màu xanh thời gian của Dương Quang Hùng; Cô giáo Plây em của Võ Văn Hoàng và rất nhiều ca khúc hay của nhiều nhạc sĩ Quảng Ngãi khác (không thể liệt kê hết được). Nhiều nhạc sĩ ngoài tỉnh cũng đã dành tình cảm viết nhiều bài hát cho Quảng Ngãi như Du kích Ba Tơ của Dương Minh Viên; Hương quế Trà Bồng của Đào Việt Hưng;…Dòng ca khúc nầy phảng phất làn điệu dân ca, câu hò, câu hố miền xuôi, miền ngược xứ Quảng. Đối với âm nhạc dân gian vùng cao của đồng bào Hre, Kor, Ca dong là các làn điệu Ta lêu ta choi, Dê oh dê,…Âm hưởng cồng chiêng và điệu múa vào mùa phát rẫy, lễ hội đâm trâu từng làm sôi động núi rừng, phản ảnh cuộc sống gần gũi thiên nhiên của đồng bào nơi Trường Sơn đại ngàn. Các nhạc sĩ Quảng Ngãi đã khai thác những chất liệu dân gian đó, vận dụng âm nhạc hiện đại vào để làm nên những tác phẩm có giá trị lớn trong đời sống công chúng, tiêu biểu như: Giấc hương mùa của Trần Xuân Tiên đậm chất Hre; Mời rượu cần của Đinh Thiên Vương đậm chất Ca dong; Đêm hội làng Kor của Minh Châu đậm chất Kor; và nhiều tác giả, tác phẩm khác,…Các nhạc sĩ, nhạc công đã sử dụng linh hoạt những tiết điệu, với nhiều nhạc cụ hiện đại và dân tộc để phối nhạc đệm cho mỗi tác phẩm, chất lượng khá tốt. Những ca khúc nói trên, nhiều biên đạo, ca sĩ, diễn viên Quảng Ngãi đã dàn dựng và biểu diễn thành công tại nhiều lần hội thi, hội diễn trong, ngoài tỉnh. Các làn điệu dân ca Trung Trung bộ, trong đó có nét riêng Quảng Ngãi cũng được các nhạc sĩ ký âm, đặt lời mới và các ca sĩ đã trình diễn tạo nên nhiều tiết mục đậm đà bản sắc dân tộc, được công chúng ngưỡng mộ. Còn thể loại nhạc trẻ hiện nay, ca từ đơn giản, tiết nhịp rộn ràng với sự hỗ trợ đắc lực của các loại nhạc cụ được nhiều bạn trẻ ưa thích, nhưng chưa thịnh ở Quảng Ngãi.
Đối với thiếu nhi, thiếu niên, từ chất liệu dân gian như: đồng dao, hò vè,…các nhạc sĩ đã sáng tác nên những ca khúc cho thiếu niên, thiếu nhi. Dòng ca khúc nầy được các em tiếp nhận, say sưa hát ở trường lớp, gia đình hay những lần công diễn, họp bạn,…Hình ảnh quê hương lại hiện về trong tâm hồn tuổi thơ xứ Quảng và lan rộng đến nhiều miền đất nước. Tiêu biểu cho phong trào nầy là nhạc sĩ Trần Xuân Tiên với nhiều ca khúc, tổ khúc, mà các em thiếu niên, thiếu nhi đã từng dự thi cấp trung ương đạt giải cao.
Về lực lượng biểu diễn, các nghệ sĩ dàn dựng sân khấu Quảng Ngãi thiên về thể loại hát múa với số lượng diễn viên đông. Tùy theo yêu cầu của cuộc thi hay đêm diễn, khá nhiều tiết mục đã khai thác được nét đẹp dân gian Việt Nam nói chung và Quảng Ngãi nói riêng, thể hiện qua phong cách diễn ca, sắc màu hóa trang, động tác múa,…Nghệ thuật múa, khiêu vũ phương Tây cũng được vận dụng hợp lý vào những chỗ dùng sức bật nâng người, xoay người để tiết mục sinh động. Trong thời gian gần đây thể loại Aerobic phát triển trong hội thi, hội diễn của học sinh, được coi như múa vui khỏe trên nền nhạc; và các nghệ sĩ dàng dựng đã tích cực sử dụng nhạc Việt.
Miền Trung - Tây Nguyên, vùng đất trầm tích đa tầng văn hóa, là kho tàng vô giá văn nghệ dân gian. Thể hiện tính dân tộc và hiện đại trong sáng tác, biểu diễn ca khúc là trách nhiệm của người soạn nhạc, người dàn dựng, người biểu diễn nhằm gìn giữ bản sắc và phát triển âm nhạc Việt Nam, trong đó có Quảng Ngãi. Còn người thưởng thức nói chung và các bạn trẻ cần tiếp nhận, cổ vũ cho sự kết hợp hài hòa phát triển tính dân tộc và hiện đại trong âm nhạc cũng là điều rất cần thiết.