Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013
Biên khảo: RUỘNG THIẾT ĐẠC
Bùi Văn Tạo
RUỘNG THIẾT ĐẠC, MỘT NÉT VĂN HÓA NÔNG NGHIỆP
LÀNG BA LA XƯA
Tự bao đời vùng đất phía đông tỉnh thành Quảng Ngãi có câu ca dao "Ba La chạy thẳng Cù Mông/ Chạy quanh chạy quất cũng đồng Ba La". Cù Mông có thể là thành Cù Mông (Cẩm Thành), có thể là làng Chánh Mông (Chánh Lộ) lúc chưa phân chia thành nhiều phường như ngày nay. Điều nầy khẳng định khu vực phía đông và nam làng Ba La (xã Nghĩa Dõng) ruộng đất bạt ngàn. Lúc ấy dân cư của làng tập trung đông đúc ở phía bắc dọc sông Trà, còn phía nam người ở thưa thớt.
Đời sống xưa dựa hẳn vào cây lúa, văn minh lúa nước của cư dân đồng bằng vùng Ba La rất phát triển. Ruộng giữ vai trò hàng đầu trong canh tác nông nghiệp, nhất là ruộng hai vụ. Nguồn thủy lợi khởi đầu từ sông Giăng (Nghĩa Hành) chảy qua Điền Trang, La châu (Nghĩa Trung, Tư Nghĩa) rồi mới đổ về tưới cho đồng ruộng Ba La. Khi thủy lợi đầu nguồn thừa thì cuối nguồn mới có nước sử dụng. Gặp năm hạn hán, việc canh tác lúa ở vùng phía cuối dòng thật căm go, nông dân phải đào ao, khơi giếng tìm nước tưới cho cây lúa. Vì thế mà ruộng hai vụ không nhiều như ngày nay. Còn ruộng một vụ chiếm cả một diện tích lớn, ăn nhờ nước trời hoặc bỏ hoang, cỏ dại tha hồ mọc. Đất thổ trồng khoai lang khi mùa mưa đến. Ngô chỉ canh tác được vào mùa nắng ở những nơi có thế nước. Cây mì chịu hạn còi cọc cả năm mới cho củ. Kể từ người làng Ba La hợp tác với dân Điện An (Nghĩa Thương, Tư Nghĩa) khai kênh dẫn nước từ Hòn Bà (Nghĩa Hành – Minh Long) về và đắp Đập Ba Điện giữ nước (bờ đập nước và dinh thờ tiền hiền nay vẫn còn) thì diện tích lúa nước tăng lên, đời sống có bước đổi thay đáng kể. Suốt quá trình khắc phục thiên nhiên của các thế hệ tổ tiên xưa cũng là giai đoạn tổ chức làng xã phát triển. Lúc dân cư thưa thớt, ngoài ruộng đất tư điền do dân khai khẩn rồi kê khai lập bộ là ruộng đất bỏ hoang được làng xã sung công gọi là công điền, chủ yếu là ruộng. Việc đo đạc ruộng, lập thửa, qui xứ đồng được hình thành từ đó. Thời ấy, ngoài đơn vị diện tích sào, mẫu còn có đơn vị đạc. Đạc, có sách gọi một đạc là một sào, có sách ghi là đơn vị đo chiều dài ước chừng 60 mét. Đối với làng Ba La một đạc ruộng khoảng 4 đến 6 sào trung bộ. Với cách xác định như trên, người ta chia đạc theo từng xứ đồng.Ví dụ: Ruộng đạc nhất của xứ đồng Khối Si,... Ba La có đến mấy chục xứ đồng, làm cơ sở để làng xã cứ ba năm một lần tổ chức cấp hay cho nông dân đấu giá thuê ruộng công điền. Nông dân thuê ruộng phải nộp thóc hoặc qui thành tiền cho ngân sách công. Người có khả năng vốn, sức lao động, sức kéo trâu bò thì đấu được nhiều ruộng, người nghèo thiếu tài chính, yếu lực thì chỉ đấu được một số ít, đời sống kham khổ.
Trong việc đo đạc, qui định xứ đồng của làng Ba La người ta chọn vị trí đầu làng nơi có ruộng phì nhiêu liền dải, gần khu dân cư đó là Bàu Lác để lập thiết đạc tiếp theo là đạc nhất, nhì, ba…Cứ thế, người ta đo và xác định hết diện tích ruộng công của làng. Riêng xứ đồng Bàu Lác mới có thiết đạc, các xứ đồng khác bắt đầu từ đạc nhất. Trong thiết đạc người ta chọn một mảnh đất hình chữ nhật hơi vuông, diện tích hơn nửa sào, nằm sát đất thổ, nhưng thấp hơn mặt đất thổ và cao hơn mặt ruộng làm vị trí chính của thiết đạc (mốc khởi đầu đo đạc). Đó là nơi hàng năm vào dịp tháng tám làng long trọng tổ chức lễ cúng trời đất, thành hoàng làng, thần nông, tiền hiền, hậu hiền cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân cư no ấm. Cúng thiết đạc là cách tri ân nền văn minh lúa nước, sự khai mở ruộng đồng, gửi tâm linh vào thần đất, thần nước, mẹ lúa,...Ruộng sâu thì ngập úng khi thừa nước, còn thổ cao thì khô cháy khi nắng hạn. Mảnh đất hình chữ nhật ấy là mạch nối thổ cao với ruộng sâu, điểm giao hòa hai cực âm dương làm nên sinh khí ruộng đồng. Tuy là chỗ con người chọn, mang tính phong thủy, nhưng giá trị tinh thần của nó rất lớn. Dân làng tôn trọng và thiêng liêng hóa đến nỗi không dám thả trâu bò, phóng uế, cuốc phá mảnh đất nhỏ ấy. Quan niệm dân gian cho rằng ruộng thiết đạc linh, người vững tâm mới giám nhận canh tác và hàng năm riêng mình phải cúng lễ.
Ngày nay khoa học phát triển, việc canh tác ruộng đồng được cơ giới hóa hầu hết, thủy nông thành mạng kênh mương tiện ích. Diện tích ruộng của làng Ba La không còn rộng như xưa nữa. Thiết đạc cũng mờ dần theo năm tháng, còn chăng trong trí nhớ người già và ký ức quê hương. Nhưng thiết đạc mãi là giá trị tinh thần, chứa đựng nỗi niềm cuộc sống, điều mà các thế hệ sau nên biết đến như hiểu về cội nguồn xưa.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét