Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Thơ : QUA TÂN DIÊM

QUA TÂN DIÊM                        

Hơn hai mươi năm qua
Tôi nhớ mãi một chiều hè, câu nói.
“Cháu ơi! Cho gửi muối lên xe
Đất quê nghèo không làm ra được thóc
Phải muối đi xa đổi lấy cái ăn về”

Tân Diêm núi đá ở bên tây
Còn ở bên đông là biển cả
Bao đời nhọc nhằn làm nên bờ ngay đồng phẳng.
Đẫm áo mồ hôi thánh thót giọt trưa hè
Muối với người thân quen qua cơm bữa
Nhớ chăng tình hạt muối lắm gian nan.

Tôi trở lại nơi từng ray rứt nhớ
Tìm người già đã gặp năm xưa
Cụ vắng bóng trên miền quê giàu vị mặn
Xao xuyến lòng thôn xóm đổi thay!
                                           Tân Diêm, Sa Huỳnh, 2004

Thơ: EM CÓ ĐỢI

EM CÓ ĐỢI

                
Mây chiều lang thang trên đỉnh núi
Gió ngàn vi vút vượt đèo cao
Nhớ mùa nắng chiếu vàng nương rẫy
Nhà sàn êm ả điệu hát ru
Tháng ba rừng cau hương gió núi
Mùa rẫy cà-rỏ tiếng chiêng dồn
Chia tay núi rừng em có đợi
Anh về bên nhau hát Ka-lêu.

Thơ: NHỚ SÔNG XA

         NHỚ SÔNG XA

“Chừ anh đi mô?”
Lời người con gái hỏi bạn trai
Tôi xa xứ ban đầu sao nghe lạ
Nhưng rồi giọng nói hóa thân quen

Quê em bên sông Vu Gia
Có hoàng hôn nhuộm vàng bờ bãi
Chuyến đò chiều đưa khách muộn màng qua
Đất bên sông cũng mùa ngô lúa
Vạt dâu non tươi tốt mượt mà
Nhắc một thuở đông vui nghề tơ lụa
Về Vu Gia câu hát Quảng quê em

Chuyện em kể đang còn dang dở
Chừ tìm đâu ai kể cho nghe?
Mấy bến nước Vu Gia đành lỡ hẹn
Để người về mang nỗi nhớ sông xa
                                    
                            Đà Nẵng,  hè 2007
       

Thơ: NẮNG XUÂN

Bùi Văn Tạo

                                       NẮNG XUÂN

Con đò thời gian chầm chậm lại
Xôn xao nắng sớm gọi xuân về
Lúa trải đồng xanh lên màu mới
Rộn ràng buổi chợ, bến sông quê

Vườn ai thoang thoảng thơm hương bưởi
Liếp cải khoe mình nở bắp xinh
Sau hàng dậu biếc em búi tóc
Gợi nét duyên quê thắm đượm tình

Trái ngọt đầu cành treo mọng quả
Mai vàng búp nụ ướm mùa hoa
Tường xây ngõ mới vôi nồng nhẹ
Trong gió xuân về vọng tiếng ca

Xa em năm tháng đường quê cũ
Mang lời hẹn ước mấy mùa sang
Nghiêng nghiêng tia nắng qua nhành lá
Chạm nụ hoa yêu bước ngỡ ngàng!



Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Thơ: MÙA THU CHO CON

                  Bùi Văn Tạo

                                        


                                            MÙA THU CHO CON

                                    Vào thu trời vẫn nắng chang
                                    Chỉ đêm một chút ngỡ ngàng hơi sương
                                    Chiều quê từ phía góc vườn
                                    Có giàn mướp muộn soi gương sắc vàng
                                    Trời xanh mở lối thênh thang
                                    Yên bình mây trắng dặm ngàn bay xa
                                    Chuyển mình đồng lúa quê ta
                                    Thấm qua nắng hạ làm ra hạt đầy
                                    Ủ trong mơ ước từ đây
                                    Cho năm tháng mới cho đời tương lai
                                    Bình minh trên những đường dài
                                    Thêm trang sách mở ngày mai đợi chờ
                                    Quê hương là cả hồn thơ
                                    Đưa con bước đến bến bờ tươi vui!
                                                                        

Thơ: MÙ SƯƠNG

Bùi Văn Tạo

               MÙ SƯƠNG

Sương là hiện tượng thiên nhiên
Mà làm lay động trăm miền quê hương
Dệt thành câu chuyện yêu thương
Canh năm sương kín mặt đường người đi
Làng quê gợi nhớ những gì
Tiếng gà xao xác còn ghi vào lòng
Những mùa mang nỗi chờ mong
Trời không sương muối lúa đòng đòng xanh
Xa mờ như vẻ bức tranh
Long lanh giọt ngọc đầu nhành hoa tươi
Tháng giêng sương nở nụ cười
Còn như mây khói tháng mười sương đêm
Dặm đường rong ruổi dài thêm
Mang theo nỗi nhớ bên thềm giọt rơi
Mênh mông loang cả vùng trời
Thương cha thương mẹ một đời đậm sương
Chìm trong hình ảnh quê hương
Mù sương khói sóng dặm đường sông quê
Bến xưa có đợi người về?
Sương lam bờ bãi chân đê chiều vàng.



MIẾU BẠCH HỔ

Bùi Văn Tạo                                                                                   

                                            MIẾU BẠCH HỔ

           Bến Tam Thương bên bờ nam một dòng sông mang tính tượng trưng của quê hương, tuy giờ đây chỉ còn lại một ít dấu tích, nhưng ai biết được nơi ấy một thời tấp nập, nổi tiếng trong vùng. Có người cho rằng bởi nó là nút giao thương giữa miền núi, miền biển theo đường sông với đồng bằng khu vực trung tâm một tỉnh hay giao lưu với ngoài tỉnh bằng đường thuỷ. Người ta cũng truyền nhau về những câu chuyện đầy thương cảm đã xãy ra nơi bến sông, để nhiều đời sau nghe như một giai thoại. Mà chuyện dân gian là nguồn văn học quí giá, hầu như chuyện nào cũng giàu ý nghĩa, chứa đựng những nỗi niềm. Năm tháng đi qua, trải bao sự đổi thay in đậm hay phai mờ, giờ đây ngôi miếu cổ nằm cạnh bến Tam Thương không còn nữa, nhưng cái tên miếu Bạch Hổ vẫn còn trong chuyện người kể lại như ký ức một vùng quê
          Lâu lắm, người già nhất cũng không sao nhớ nổi, các thế hệ bô lão khi rỗi việc thì kể chuyện cho con cháu nghe. Có đứa nghe xong cứ bám theo ông bà mà hỏi cho kỳ được ngọn nguồn. Mùa mưa năm ấy trời nổi trận phong ba, nước lũ từ thượng nguồn đổ về lênh láng, mấp mé triền sông rồi trèo tót lên bờ, tràn vào ruộng vườn. Vô số những bè củi, bè gỗ, rác rều, khi nổi, khi bấp bênh ngụp lặn, hối hả trôi về phía biển. Trên một bè củi mục trôi nhanh có ba mẹ con nhà hổ. Đến đoạn bến, dòng nước xoáy mạnh, bè củi mục ấy bị xé toạc làm đôi. Thế là ba mẹ con nhà hổ lâm vào cảnh bị chia lìa, nửa bè trôi dạt vào bờ mang theo một chú hổ con, nửa bè kia theo dòng nước cuồn cuộn chảy, trên đó có hổ mẹ và hổ em. Hổ mẹ quằn quại nhìn con âu lo tuyệt vọng. Chú hổ nhỏ may số được tấp vào bờ, bấu víu cành cây, mô đất trụ cho qua cơn hồng thuỷ rồi bắt đầu sống đời tự lập. Chắc nó cũng biết hổ mẹ và em không còn sống nữa.   
         Vùng bến sông thuở ấy còn khá hoang vắng, mỗi ngày giỏi lắm chỉ vài ba chuyến đò đưa khách qua lại, hoặc cập bến giao thương. Ban ngày hổ con ẩn nấp trong lau lách, bụi rậm, ban đêm tìm mồi để sống. Dần dần hổ lớn lên, thỉnh thoảng người ta cũng nhìn thấy dấu vết nó. Nhưng hổ không bao giờ làm hại người, thậm chí đến  gia súc của cư dân trong vùng nuôi thả cũng không bị hổ săn bắt. Có lẽ mảnh đất nầy ngày xưa còn khá nhiều động vật hoang dã đủ để hổ con tự nuôi mình. Duy có một điều, mỗi năm cứ đến một đêm tháng chín âm lịch, người ta lại thấy trên bến sông có xác một con vật, khi thì con  cáo, khi thì  con mang,..Việc lặp lại như thế trở thành điều đáng chú ý. Bến sông đần dần đã có người ở, cư dân vùng lân cận cũng đông lên, người hiếu kỳ bắt đầu rình mò tìm hiểu chuyện lạ. Tình cờ vào một đêm tháng chín họ bắt gặp hổ tha mồi về đặt tại bến sông, rồi quỳ mọp như người, miệng rú khe khẽ nghe buồn thảm thiết. Từ đó người ta lật ngược thời gian và biết được nơi đây từng có sự chia ly của ba mẹ con nhà hổ.
          Năm tháng cứ đi qua bến đò buồn vắng, hổ con giờ đã trưởng thành. Lãnh địa của loài chúa tể sơn lâm không phải ở bến nước nho nhỏ, hổ tìm đường về rừng như để tránh va chạm với người. Thế nhưng cứ mỗi năm, cũng vào cái đêm tháng chín, hổ lại mang xác một con vật từ rừng về bến sông tế mẹ và em. Người trong vùng biết được càng thương hổ, không bao giờ đánh phá nó. Hổ cũng không động đến một cành cây ngọn cỏ bến nước quê hương, chỉ tiếc rằng nó không thể tâm sự cùng người!
            Bẳng đi một năm, rồi hai năm, mặc cho người chờ xem, đêm tháng chín vẫn không thấy hổ về. Ai ai cũng nghĩ với bản tính loài thú chắc hổ đã quên hoặc bị chết vì cạm bẩy đường rừng,…Chuyện ấy bàn tán rộ lên như con nước rồi cũng lắng xuống nhường chỗ cho việc làm ăn mối lái giao thương. Nhưng đến đêm tháng chín năm thứ ba, trời không mưa, trăng hạ tuần nghiêng nghiêng phía núi, dưới ánh sáng mờ mờ, hổ gìa chân đi khập khiễng nặng nhọc tha con mồi nhỏ đem đặt xuống bến sông như những năm trước. Lông hổ giờ đây như đã bạt màu, mớ tóc trên đầu nó rối rắm như nắm tơ, phơi lộ dưới ánh sáng màu vàng ệch của trăng đầu mùa đông xế bóng. Hổ già cúi đầu rên rỉ, ngồi mãi không đứng dậy. Người chứng kiến cảnh ấy càng thương hổ, họ cảm động đến mức không thể xem được mà im lặng về nhà, bến nước sương khuya vắng vẻ đến lạ kỳ.
           Khi ánh nắng đầu ngày xuất hiện trên cành cây ngọn cỏ, người qua đò tri hô lên:
                 - Có một con hổ thật to chết ở bến sông.
          Dân trong vùng ùa ra xem, nhiều người biết rõ câu chuyện ngậm ngùi rơi nước mắt. Họ chọn nơi cao ráo gần đó chôn cất hổ như chôn cất con người và lập một am nhỏ thờ có tạc hình hổ trắng. Không chỉ dân bản xứ mà bất kỳ ai khi qua đây đều bày tỏ nỗi niềm thương cảm, thắp hương đèn cho miếu Bạch Hổ. Bến nước sông quê từ đó tấp nập hẳn lên.

Thơ: GIÁP TẾT

Bùi Văn Tạo

                                                  GIÁP TẾT

                                   Giáp tết thời gian như chậm lại
                                   Nghe lòng cuộc sống nhịp trào dâng
                                   Rừng xa hoa nở chim đùa hót
                                   Ruộng đồng, sông núi, biển trời xanh

                                   Giáp tết đầu cành ươm lộc biếc
                                   Chợ thêm phiên mới buổi đường xa
                                   Trẻ thơ ríu rít vui ngày hội
                                   Tay người Đất nước dệt đài hoa
                                    
                                   Giáp tết vườn ai khoe hương sắc
                                   Gợi duyên em gái mỉm môi cười
                                   Ngẩn ngơ nắng ửng hồng đôi má
                                   Đời căng nhựa sống tuổi đôi mươi

                                   Giáp tết bình minh chân trời đẹp
                                   Nét xuân rạng rỡ khắp quê hương
                                   Tầng cao én liệng trong làn gió
                                   Nắng trải reo vui xuống phố phường

                                   Giáp tết thời gian vào trạm mới
                                   Đảo xa đất mẹ biển ngời xanh
                                   Vươn tay đón lộc chào xuân tới
                                   Mạch sống ngàn năm vận hội thành !
                                  
                                  
                                    
                                   

     
                                  

ĐÈO VIOLĂC VẺ ĐẸP GIÓ NÚI MÂY NGÀN

Bùi Văn Tạo
                         
                       ĐÈO VIOLAC VẺ ĐẸP GIÓ NÚI MÂY NGÀN

        Theo quốc lộ 24, du khách đến Ba Tơ, thăm quê hương anh hùng cách mạng, giao lưu với những nét văn hoá của dân tộc Hre, rồi qua cửa ngõ đầu tiên vào vùng đất Tây nguyên hùng vĩ và huyền thoại. Đó là đèo Violac, một phong cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ.
        Từ thị tứ Ba Vì đến xã Ba Tiêu đoạn đường nầy khá bằng phẳng, lượn song đôi với thượng nguồn sông Re. Nơi đây sông Re nổi tiếng đẹp bởi những bãi đá hiển hiện dáng vẻ trầm tư dầu dãi và dòng nước trong xanh. Sự xâm thực của nước đã tạo nên vô số tảng đá đẹp đủ cỡ to nhỏ. Tuỳ theo mùa, khi trời quang mây tạnh, dòng nước yên ả chảy về xuôi, còn khi mưa gió thì nước tuôn ào ào như thác đổ. Đó là những ấn tượng ban đầu khi du khách chuẩn bị vượt đèo Violac vào huyện Komplong tỉnh Kontum. Đỉnh đèo ở độ cao khoảng 1300 mét so với mực nước biển, nơi phân thuỷ đông tây. Đường qua đèo khá quanh co uốn lượn, nếu đứng từ Ba tơ nhìn lên ta có cảm nhận như một Hải Vân thu nhỏ, còn những ai lần đầu qua đây không thể tránh sự hồi họp bởi những cung đường gấp khúc và vách núi dựng ngược. Mùa nắng, đến giữa buổi sáng sương mù vẫn chưa tan hết, đây đó còn ôm ấp lưng đèo, khi chiều về mây che phủ mặt đường, người có thể ôm mây vào lòng để tận hưởng khí thiêng rừng núi. Những ngày thời tiết tốt, lúc nắng ngã về tây, đứng trên đỉnh nhìn xuống chân đèo ta bắt gặp dòng sông Re mảnh mai chìm dưới lòng vực, len lỏi qua những chân đồi rồi bất ngờ chảy ra thung lũng hay những cánh đồng nhỏ màu xanh lá mạ. Xa xa, những bản làng của người  Hre với những nếp nhà sàn còn nguyên sơ hay đã cách điệu một phần. Phóng tầm mắt về thị tứ Ba Vì, rồi thị trấn Ba Tơ, hình ảnh phố nhà hoà với làng bản phản ánh miền đất cách mạng đang từng ngày thay da đổi thịt. Cũng từ đỉnh đèo nhìn về phía tây, núi và núi, là trường sơn đại ngàn có những khu rừng nguyên sinh còn lại. Những cây họ dương xỉ cao như cây dừa cở mấy chục năm tuổi để lại trong lòng du khách cảm nghĩ về tuổi của rừng năm tháng không đếm xuể. Đèo Violac là nơi để người ta dễ nhận thấy sự phân biệt thời tiết đồng bằng và Tây nguyên, đông Trường Sơn và tây Trường Sơn. Khoảng tháng sáu âm lịch đứng trên đỉnh đèo nhìn về phía đông thấy nắng vàng rực rỡ, còn nhìn về phía tây thì mây mù che phủ. Hình ảnh nên thơ nầy đã từng lưu lại trong ký ức, trong cảm xúc của bao người từng năm tháng sống với Trường Sơn “đông nắng tây mưa”. Đèo Violac đẹp với tiếng gió. Những ngày không mưa nhất là vào mùa xuân, mùa hạ, khi xe lượn sườn non gió dào dạt thổi vào lưng núi, hay vi vút qua khung cửa tạo nên chuỗi âm thanh như khúc nhạc hoang dã. Còn nếu du khách đi bộ hay dừng lại nơi lưng chừng núi để nghe chim hót thì độ xuân về tiếng chim ríu rít gọi đàn, còn vào hạ hay sang thu lại nghe loài chim lạ tiếng lảnh lót vang xa từ phía triền non. Và mùa xuân đến, hoa rừng đua nở, đặc biệt sang tháng giêng, tháng hai hoa vẫn còn khoe sắc, có lẽ do lạnh nên rừng xuân thức giấc muộn. Đèo Violac đẹp với mây trời, nếu ngày nắng người qua đèo nhìn được vô số những đám mây từ biển bay về núi, hình dạng luôn thay đổi, nổi cộm trên nền trời xanh thẳm người ta thường gọi là phù vân. Còn khi chiều xuống hay ban mai sương và mây bay là đà trước mặt, tạc vào da người tạo nên cái cảm giác mát lạnh, ẩm ướt, hoang sơ. Những ngày mưa gió, đèo vắng người qua, con đường rải nhựa đen ánh như sợi chỉ luồn qua triền núi, rồi thì lưng đèo, đỉnh đèo mây mù che phủ dày đặc, một cảnh đẹp đối với những ai thích ngắm núi rừng khi mùa đông sang. Đèo Violac, mùa hè ấn tượng với tiếng chim còn mùa mưa có âm thanh của suối. Tiếng những dòng chảy trầm đục nghe như tiếng xe chạy trong lòng đất tạo cho núi rừng thêm vẻ hùng thiêng. Vùng đèo và rừng núi lân cận nằm trên dải khí hậu phân ranh đông tây, quanh năm mát như Đà lạt, tồn tại cây huỳnh đàn, một loại gỗ quí hiếm cần gìn giữ, là một đặc điểm mà nhiều vùng núi khác không có được.
        Đỉnh đèo Violac là điểm mốc ranh giới giữa hai tỉnh Quảng Ngãi và Kontum. Và như thế khi du khách tạm biệt với Ba Tơ sẽ vào huyện Komplong mà các xã đầu tiên là Pơ-ê rồi đến xã Hiếu, người dân tộc ở đây theo tiếng địa phương gọi là Mơ–năm. Tiếng nói của người Mơ-năm và người Hre có khác nhưng hiểu được nhau, sự giao hảo của hai dân tộc đã tạo nên nhiều đôi chồng vợ. Tình cảm con người hai phía đông và tây đèo từ bao đời đã gắn bó, chung lòng xây dựng quê hương vùng cao. Đèo Violac, một phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp nằm giữa Ba tơ và Komplong, nơi từng làm nên trang sử vàng của Đất nước.        

Thơ: ĐÊM BAN MÊ

                   Bùi Văn Tạo

                                                ĐÊM BAN MÊ

                                          Ly cà phê vị đắng
                                          Toả hương đêm Ban Mê
                                          Trăng cao nguyên tháng chín
                                          Hôn lên mái tóc thề

                                          Bước chân nơi xứ lạ
                                          Vấn vương đường quê xa
                                          Hoa thơm trong ánh mắt
                                          Hội mùa theo tiếng ca

                                          Đêm cao nguyên đầy gió
                                          Ơ vac ơ voon ê *
                                          Điệu ru về tiếng hát
                                          Xanh xanh rừng đê mê

                                          Thời gian như ngừng lại
                                          Lưu luyến và chia tay
                                          Khey mơ nia bi khap *
                                          Thắm duyên tình mê say

                                          Trăng rừng khuya thanh vắng
                                          Cô đơn buồn dâng thêm
                                          Ngoài trời sương thao thức       
                                          Nỗi niềm Ban Mê em       
                                                                                  
                         * Những điệu hát  dân gian                Đêm Ban Mê Thuộc
                    của dân tộc Ê- đê                                 9/2009

Thơ: ĐẤT NƯỚC


                                  Bùi Văn Tạo

                                                    ĐẤT NƯỚC

                                      Đất nước ta từ ngày vui độc lập
                                      Ánh bình minh biển mặn đến Trường Sơn
                                      Xích nô lệ không còn vây khốn nữa
                                      Giống Lạc Hồng rạng rỡ dưới trời xuân

                                      Đất nước từ những ngày tháng ấy
                                      Cảnh đói nghèo lần lượt đổi thay vui
                                      Tiếng con trẻ học bài trong làng bản
                                      Cụ già thôn xóm mặc áo hoa

                                      Đất nước reo ca mừng thống nhất
                                      Núi rừng xa phố mới điện như sao
                                      Bên bờ biển nhà cao đô thị mọc
                                      Ấm no về trên khắp nẻo quê hương

                                      Ơi! Đất nước rộn ràng mùa xuân mới
                                      Thuyền đi khơi vượt sóng tận đảo xa
                                      Tình đất mẹ gửi con người chiến sĩ
                                      Chốn biên thuỳ máu thịt vạn ngàn năm

                                      Vang vọng mãi một tình yêu đất nước
                                      Trời trong xanh, xanh cả đến mai sau
                                      Xuân lãng mạn mạch nguồn ươm nhựa sống
                                      Giữa dòng đời khúc hát nhịp trào dâng

                                                                                                                          
                                      
      

CÒN CÓ MỘT LIÊN TRÌ DỤC NGUYỆT

CÒN CÓ MỘT “LIÊN TRÌ DỤC NGUYỆT”

           Theo tỉnh lộ 625 về phía tây, cách trung tâm tỉnh Quảng Ngãi hơn 10 cây số, thuộc huyện Tư Nghĩa có một hồ sen thiên nhiên. Nằm giữa xóm làng bóng cây râm mát, ruộng đồng tươi tốt, hồ tuy không rộng lắm nhưng tạo cho quê hương một phong cảnh đẹp, ấn tượng nhất là mùa sen nở.
           Nơi đây người địa phương thường gọi là bàu sen, rộng hơn 7 hec ta, diện tích qui hoạch khai thác có thể nhiều hơn, thuộc hai thôn An Cư và An Lạc, xã Nghĩa Thắng. Hố sen có từ lâu đời, tuy không ăn thông với kênh mương nào bên ngoài nhưng hiếm khi khô cạn nhờ nước mạch rỉ ra từ đất đồi gò xung quanh. Xa xa, nhìn hồ như hai dải lụa màu xanh lá cây mượt mà, một đầu nhỏ dần ăn sâu vào làng, đầu kia xếp chung làm thành thân chính của hồ. Giữa hai nhánh là cồn đất, trước kia cây thiên nhiên mọc rậm rạp, nay người dân trồng các loại cây gia dụng quen thuộc như bạch đàn, keo lá tràm…Bên bờ hồ phía bắc là ruộng lúa, đồng cây hoa màu và xóm ven sông Trà. Còn bờ nam là làng, bóng tre rũ xuống hồ như tóc thôn nữ soi gương. Thỉnh thoảng trong tầm nhìn, ta gặp mấy bóng dừa nghiêng nghiêng bên những nếp nhà quen thuộc của vùng quê xứ Quảng. Một vài quán ăn mọc lên ở phía đông thu hút khách gần xa trong những ngày nghỉ, ngày lễ. Quanh hồ, dải lục bình lúc nào cũng nở hoa tím, cùng với mấy cụm đá chồng chất tự nhiên như có sức tô thêm cho cảnh vật vẻ hoang sơ. Tuỳ mùa, các loài chim di trú sống nơi đầm nước như cò, vịt trời, gà lôi, cuốc,…thay nhau về làm chủ mặt hồ. Phong cảnh cũng thay đổi theo mùa, mùa sen nở, hồ sinh động hẳn lên. Buổi sáng mai, màu tím dịu dàng của loài hoa thanh cao nổi bật trên sắc xanh của lá và trong không gian yên ả, còn trên cây cối quanh hồ thì tiếng chim thi nhau ríu rít. Ngọn gió đồng đưa hương sen thơm ngát từ sáng sớm đến chiều tà. Dường như vào mùa hoa hạt, các giống chim cũng nhẹ nhàng khi bay lên hay đậu xuống hồ sen. Chiều về giữa lúc hoàng hôn nhuộm vàng làng mạc, văng vẳng đâu đó tiếng cuốc kêu gọi bạn. Rồi những đêm trăng tỏ, ánh sáng dát vàng phong cảnh, bóng trăng lung linh đáy nước toát lên vẻ đẹp yên bình. Thỉnh thoảng, đàn vạc lướt qua hồ in những dấu ấn chấp chới và cất tiếng kêu vang trong không gian đêm tĩnh lặng. Mùa sen tàn, lá già sẫm đỏ, mặt hồ như buồn đi bởi mưa gió đến, nhưng bù lại các loài chim trú đông kéo về nhiều hơn.  Cá cua, tôm tép đồng cũng có dịp sinh sôi nảy nở, còn sen thì nghỉ sức để năm sau tặng cho đời mùa hoa tím mới.
          Hồ sen là bạn đồng hành của người bản xứ, bởi  khi chưa có bao bì tiện dụng như ngày nay thì lá dùng để gói hàng ra chợ. Nõn sen, búp hoa phơi khô pha với chè làm thức uống. Ngó sen làm món khai vị hay gỏi trộn,…rất ngon. Hạt sen một loại dược liệu quí, là thực phẩm cao cấp. Bánh in bột hạt sen pha ý dĩ chữa trẻ con bị chứng suy dinh dưỡng, cam tích…Tim sen làm thuốc an thần chữa mất ngủ cho người trung niên hay khi tuổi già. Hồ sen cung cấp cho quanh vùng các loại cá đồng, tôm tép…Cá tôm thiên nhiên ở đây chất lượng thực phẩm cao, ngon và bổ dưỡng. Hương vị cá đồng nướng dầm mắm ớt tỏi hay kho với lá gừng tươi, tôm tép rang xào kiểu dân dã sẽ còn nhớ mãi đối với những ai từng thưởng thức nó. Các loài chim nước như vịt trời, gà lôi, cuốc,… thịt cũng rất thơm ngon, nhưng thỉnh thoảng người ta mới bắt được bởi họ không cố tình săn bắn chúng. Tuy hồ nằm lọt thỏm giữa làng, chỉ khi có mưa lũ lớn nước mới tràn ra ngoài, nhưng hồ vẫn sạch nhờ ý thức giữ gìn môi trường của người địa phương. Họ không vứt rác thải, xác súc vật chết xuống hồ và ngăn cản bất cứ ai có hành vi dùng súng đạn săn bắn chim hay rà điện bắt cá. Nhờ thế mà trải qua bao năm tháng tuy có ít nhiều mất mát, vắng bóng một số loài chim nhưng hồ sen vẫn còn giữ được vẻ đẹp.
          Hồ sen Nghĩa Thắng như nàng tiên xanh cùng bạn đồng hành lạc bước xuống trần gian. Phía đông bắc hồ chừng mấy trăm mét, một cồn đất nhỏ, cây mọc rậm rạp, nổi bật là cây gạo đến trăm năm tuổi, mùa hoa đỏ rực gợi nhớ câu ca dao: “Bao giờ cho đến tháng ba/ Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng”. Và cách hồ không xa về phía đông chừng vài cây số đường chim bay là cụm hồ nước nóng trải dài trên đồng ruộng. Tự bao đời người địa phương sử dụng nguồn nước vào canh tác nông nghiệp và cuộc sống hàng ngày. Thế đó, cung đường du ngoạn về miền tây Tư Nghĩa còn có một “Liên Trì Dục Nguyệt” với quần thể thiên nhiên gần gũi nên thơ!






BIỂN LỆ THỦY YÊN BÌNH VÀ THƠ MỘNG

Bùi Văn Tạo

                            BIỂN LỆ THỦY YÊN BÌNH VÀ THƠ MỘNG 

          Chẳng biết tên Lệ Thủy có từ bao giờ, nhưng cũng xứng đáng với phong cảnh của một vịnh biển tuyệt đẹp dài gần ba cây số của xã Bình Trị, huyện Bình Sơn khu vực phía đông TP Vạn Tường.
          Biển Lệ Thủy còn có tên biển Bậc Thang, phía bắc giáp Bình Thuận, phía nam giáp Bình Hải (Bình Sơn). Nói là bậc thang bởi vì khu vực phía nam chỗ gần giáp với biển Bình Hải có núi đá, muốn xuống biển hay lên bờ người ta phải leo nhiều bậc. Có lẽ đây là vị trí ngắm biển Lệ Thủy phù hợp nhất. Những ngày nắng, bất cứ mùa nào, từ trên bờ nhìn xuống chân vực về phía nam ta sẽ gặp một bức tranh ngoạn mục, nước biển trong veo nhấp nhô tạt vào các vỉa đá ven bờ bằng phẳng. Và cũng hướng ấy, nâng tầm mắt lên cao một tí sẽ bắt gặp sự ẩn hiện của triền đồi và vịnh nhỏ phía xã Bình Hải tạo nên bức tranh sinh động lạ thường. Nhìn thẳng ra phía đông, không phải ngoài khơi xa, chỉ gần bờ thôi nhưng hầu như lúc nào biển cũng lặng và bóng mờ sương khói. Đặc biệt nhất, có lẽ trông về phía bắc, du khách sẽ thấy toàn cảnh biển và bờ. Một bãi dài cát mịn trắng phau đến hơn hai cây số, nước trong nhìn thấy đáy. Biển Lệ Thủy cạn, không có lòng chảo và êm sóng bốn mùa, trừ khi mưa to gió lớn. Ven bờ hầu như không có dòng chảy xoáy cuộn gây nguy hiểm như một số bãi biển khác. Những lúc trời đẹp, từ trên độ cao nhìn xuống, người ta sẽ thấy được biển Lệ Thủy với những con sóng nhỏ nhấp nhô vỗ nhè nhẹ, không ồn ả hay để lại dấu vết xâm thực. Xa xa phía xã Bình Thuận có núi Nam Châm như mũi tàu hướng  ra đại dương, trên đó có dây thuốc đắng, theo kinh nghiệm dân gian giúp được các bà mẹ sau khi sinh chóng hồi phục cơ thể. Mỗi ngày lúc bình minh lên, trưa đứng bóng hay chiều ngã hoàng hôn, từng thời điểm biển có vẻ đẹp riêng. Mỗi cảnh để lại trong lòng du khách một bức tranh thiên nhiên đa cảm. Thôn Lệ Thủy sát biển, cư dân sinh sống bằng ngư nghiệp và nông nghiệp. Ngư nghiệp thì dặm trình biển khơi thả lưới, buông mành,….Nông  nghiệp thì lên đồi trồng trọt các loại cây nhờ nước trời, hay canh tác lúa trên những cánh đồng nhỏ phía tây làng. Nhìn sự tồn tại của thôn xóm có thể thấy được nơi đây ít bị thiên tai sóng dữ triều cường. Những nếp nhà xây nho nhỏ, san sát trên bờ tạo cho biển Lệ Thủy một vẻ đẹp yên bình đến luyến nhớ. Mùa nắng, người trong vùng và du khách đến tắm biển Lệ Thủy khá đông, và hầu như nơi đây chưa xảy ra tai nạn đuối nước. Vùng biển nầy còn có rau mơ, vào mùa hạ những lúc thủy triều xuống dân địa phương ra biển đông nghịt, nhặt chúng về phơi khô bán xuất khẩu thu được khá tiền. Tại điểm bậc thang có kinh doanh dịch vụ nhà hàng, quán ăn với những món biển tươi ngon, là nơi mà du khách có thể vừa thưởng thức các món đặc sản, vừa ngắm biển xanh thường phẳng lặng như sông. Thật lý thú cho khoảng thời gian quí mà con người đã dành để hòa mình vào thiên nhiên.
         Không ồn ả như một số bãi biển khác là điều đặc biệt của Lệ Thủy. Mặc dầu gần khu dân cư nhưng bờ biển khá sạch nhờ ý thức bảo vệ môi trường của người địa phương, điều nầy nhiều nơi không làm được. Lệ Thủy, một vùng biển đẹp do sự hòa quyện giữa biển, bờ, nét làng và sự yên bình thơ mộng đang được nhiều nơi biết đến. Mong rằng trong quần thể Khu Công nghiệp Dung Quất - Thành phố Vạn Tường, vẻ đẹp ấy thêm được tôn vinh.

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Thơ: MÙA LÊN

Bùi Văn Tạo

                                                  
                                                MÙA LÊN

                               Nhớ “tháng tám nắng rám quả bưởi”
                               Mà chạnh lòng ngẫm ngợi đến người xưa
                               Nắng đổ lửa xuống lòng ao bờ bãi
                               Lúa đòng đòng trổ nghẹn mấy bông thưa

                               Qua mưa nắng đồng xanh vàng mấy độ
                               Làng quê ơi! Xao động những chiều về
                               Gió tha thướt hàng tre già lã ngọn
                               Hoàng hôn buông vàng lựng phía chân đê

                               Năm tháng cũ rồi mai năm tháng mới
                               Nghe rơi rơi nhịp sống đổi thay đời
                               Thương lạch nhỏ khép mình qua dĩ vãng
                               Nước kênh dài vươn chảy đến nơi nơi

                               Sương điểm bạc bạn ta chiều nghiêng xế
                               Người thân xưa bóng đổ phía hoàng hôn
                               Làng quê ruột những mầm non ngày mới
                               Lại mùa lên nắng trải rộng đầu thôn...

                                                                                Đêm 17/08/2011


                              
                              

Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

Thơ: NHÀ EM BÊN KIA SÔNG


Bùi Văn Tạo

                                    NHÀ EM BÊN KIA SÔNG

                                      Anh đứng phía chiều tây
                                      Nhà em bên kia núi
                                      Mây đường mây rong ruổi
                                      Em có còn đợi không?

                                      Nhà em bên kia sông
                                      Giữa chiều thu vàng nhớ
                                      Tre làng buông tóc thở
                                      Đôi bờ đâu cách xa!

                                      Mưa rơi trước hiên nhà
                                      Chiều đông dần xuống thấp
                                      Ngày như còn e ấp
                                      Ánh lửa gửi tình nhau

                                      Mưa nắng mùa qua mau
                                      Còn trong lời hẹn ước
                                      Nhớ em chiều nghiêng bước
                                      Thời gian cũng chín theo
    
 Năm tháng vượt lưng đèo
Mùa em về trước ngõ 
Ai mang tầm xuân nọ
Anh một đời nhớ thương!